Hỗ Trợ Trực Tuyến
Donghanhviettravels giamdocdonghanhviettravel dieuhanhdonghanhviet
kinhdoanhdonghanhviet infodonghanhviettravel huynhtamdonghanhviet

Translate

Hiển thị các bài đăng có nhãn tournhatrangtrongoi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tournhatrangtrongoi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

DU LỊCH NHA TRANG CITY TOUR NHA TRANG 4

Mã tour: ĐHVSG-City Tour NT4
Thời gian: 1 ngày
Giá tour: 768.000đ/Khách 
Khởi hành: Hằng ngày
Phương tiện: Xe đời mới 4 – 7 chỗ
Liên hệ: 083.5110854
Hotline: 0919 80 77 33
Quý Khách sẽ vui chơi thoải mái tại khu du lịch 5 sao Vinpearl Land (Hòn Ngọc Việt) - đẳng cấp quốc tế, đi cáp treo qua biển dài 3km. chơi các trò chơi cảm giác mạnh như lướt ván, xe điện đụng….xem nhạc nước – một loại hình nghệ thuật đặc biệt kết hợp của ánh sáng- âm thanh và nước. tắm biển và tắm hồ bơi lớn nhất Đông Nam Á. Đội ngũ “Hướng Dẫn Viên Thổ Địa” của Dong Hanh Viet Saigon Travel  luôn chăm sóc Quý Khách tận tình và là làm hài lòng Quý Khách bất cứ yêu cầu nào nhỏ nhất.

CITY TOUR NHA TRANG 4
Tour Nha Trang Vinpearl land – TT Suối Khoáng Nóng  Tháp Bà
Thời gian: 1 Ngày – Phương Tiện: Xe du lịch

08h00:  Xe và Hướng Dẫn Viên Dong Hanh Viet Saigon Travel đón Quý Khách tại khách sạn. Khởi hành ra bến cáp treo Vinpearlland – một trong những cáp treo vượt biển dài nhất Đông Nam Á. Vào Khu Du Lịch Vinpearlland, quý khách tự do tham gia các trò chơi:
1. Trò chơi Cảm Giác Mạnh:
- Đu quay nhào lộn (Quay liên tục trong 15' từ thấp lên cao, khi ở độ cao 50m Quý Du Khách sẽ có cảm giác mọi vật xung quanh đều rất nhỏ bé, Quý Khách có thể ngắm toàn cảnh Bán Đảo Hòn Tre).
- Tàu Lượn siêu tốc: Với tốc độ cao uốn lượn qua nhiều vòng xoáy khác nhau, lúc thì lên trời, lúc thì xuống mặt đất, Quý Khách thật sự cảm nhận được cảm giác mạnh.
- Đu quay dây văng: Khi cưỡi lên những chú ngựa với tốc độ quay cao, cứ mỗi lần sợi dây văng ra, Quý Khách cảm thấy như bị thoát khỏi lực hút của trái đất để bay vào vũ trụ.
- Trượt thác: Để tham gia trờ chơi này, Quý Khách phải mặc áo mưa, sau đó ngồi vào những chiếc xuồng hơi từ độ cao 50m (đỉnh thác) tuột xuống chân thác, khi chạm mặt nước sẽ văng lên tạo thành những bọt nước trắng xoá.
- Trò chơi Búa Đập: Sau khi ngồi vào ghế, thắt dây an toàn, các bạn sẽ được đưa lên độ cao 50m sau đó thả rơi tự do, không cần nói thì ai cũng hiểu cảm giác như thế nào.
2.  Trò chơi Cảm Giác Nhẹ: Cưởi Bò Tót, Xe điện đụng, xem phim 4D, Thuỷ Cung, Trò chơi điện tử....
 12h00: Đoàn dùng bữa trưa tại nhà hàng trên Khu Du Lịch Vinpearland và nghỉ ngơi. Tiếp tục tham gia các trò chơi trong Khu Du Lịch: Trò chơi ảo Vườn cổ tích, Xe đụng,Thiên đường trẻ em.
14h00:  Đoàn lên cáp treo, quay về đất liền, xe đón đoàn đi tham quan mua sắm tại Chợ Đầm (hoặc Chợ Xóm Mới)
17h00:  Quý Khách dùng đặc sản Nha Trang (Nem Nướng Ninh Hoà hoặc Bò Né Nha Trang  tại những nhà hàng nổi tiếng nhất ở Nha Trang  Xe đưa đoàn về khách sạn, kết thúc chương trình tham quan, chia tay Quý Khách và hẹn ngày gặp lại
14h00:  Tàu đưa Quý khách tham quan Khu du lịch suối khoáng Tháp Bà với dịch vụ “Ôn tuyền thủy liệu pháp” , Ngâm nước khoáng nóng, Tắm bùn khoáng (vé tự túc). Trên đường về, tàu đưa Quý khách ngắm toàn cảnh Thành Phố Biển Nha Trang từ sông Cái – Nha Trang. Sau đó, đi Chợ Đầm để Quý Khách mua đặc sản về làm quà cho người thân, đoàn về Nha Trang đi thưởng thức món đặc sản Nem Ninh Hòa. Xe đưa đoàn về khách sạn, kết thúc chương trình tham quan chia tay và hẹn ngày gặp lại.

GIÁ TOUR TRỌN GÓI: 768.000 VND/Khách

GIÁ BAO GỒM
Xe ôtô máy lạnh tham quan theo chương trình,
02 bữa ăn chính (ăn trưa, ăn chiều: 80.000 – 90.000 VND/khách/bữa),
Hướng dẫn viên “thổ địa” nhiệt tình chu đáo,
Nước khoáng 02 chai Aquafinal/người/ngày tham quan,
Phí tham quan theo chương trình và phí phục vụ,
Bảo hiểm tai nạn du lịch: theo tiêu chuẩn Việt Nam, mức bồi thường tối đa 30.000.000 VNĐ/01 vụ việc,
Giá trên không áp dụng cho các ngày lễ, tết và cận lễ, cận tết.

GIÁ KHÔNG BAO GỒM
Chi phí cá nhân, mua sắm, ăn uống ngoài chương trình,
Thuế Giá trị gia tăng (VAT).

GIÁ DÀNH CHO TRẺ EM
Trẻ em dưới 05 tuổi: Miễn phí, ăn uống bố mẹ tự lo cho bé, 
Trẻ em từ 05 - 10 tuổi: Giá tour bằng ½ giá người lớn,
Trẻ em từ 11 tuổi trở lên: Giá tour như người lớn.

PHỤ THU
Mùa lễ, tết: Giáng sinh và Tết Tây (18/12 – 9/1), Tết Ta (2/2 – 6/2), ngày Thống nhất đất nước và ngày Quốc tế lao động (30/4 – 1/5), ngày Giỗ tổ (12/4), ngày Quốc khánh (2/9), phụ thu 20% mức giá của bảng giá trên.

LƯU Ý
1. Giá trên chưa bao gồm thuế VAT, phí sân bay, phí xuất vé và các dịch vụ bổ sung. Do đặc điểm chung của ngành hàng không nên không thể có một bảng giá cố định. Hãy gọi cho chúng tôi sớm nhất để biết mức giá mới nhất và đặt vé trước
2. Chương trình có thể thay đổi phụ thuộc vào tình hình thời tiết nhưng vẫn đảm bảo các tuyến điểm tham quan như đã trình bày.

TRƯỜNG HỢP HỦY DỊCH VỤ VÀ GIẢM KHÁCH
Huỷ dịch vụ, giảm khách: Việc huỷ dịch vụ hay giảm số lượng khách được quy định như sau:
Mùa thấp điểm (1/5 đến 30/9):
Trước 7 ngày so với ngày khởi hành: không tính phí
Từ 3 ngày đến 7 ngày trước ngày khởi hành: tính phí 50%
Trong vòng 3 ngày trước ngày khởi hành: tính phí 100%
Mùa cao điểm (1/10 đến 30/4):
Trước 30 ngày so với ngày khởi hành: không tính phí
Từ 21 ngày đến 30 ngày trước ngày khởi hành: tính phí 50%
Trong vòng 21 ngày trước ngày khởi hành: tính phí 100%
Mùa lễ - tết (18/12 – 9/1, 2/2 – 6/2, 12/4, 30/4, 1/5 và 2/9):
Trước 60 ngày so với ngày khởi hành: không tính phí
Từ 45 ngày đến 60 ngày trước ngày khởi hành: tính phí 50%
Trong vòng 45 ngày trước ngày khởi hành: tính phí 100%
Đối với vé máy bay việc hủy hoặc giảm số lượng khách khách: Mức phí theo quy định của hãng hàng không.

THANH TOÁN
Việc thanh toán được thực hiện như sau:
• Đặt cọc: 70% giá trị tour ngay khi ký kết hợp đồng du lịch.
• Thanh toán phần còn lại: 30% giá trị tour còn lại phải được thanh toán chậm nhất 3 ngày sau ngày khởi hành.

CAM KẾT
Dong Hanh Viet Saigon Travel cam kết thực hiện đúng chương trình, tiêu chuẩn dịch vụ (xe, ăn uống,điểm tham quan) nếu Quý Khách không hài lòng bất cứ dịch vụ nào Công Ty hoàn trả cho Quý Khách 100% tiền tour.

QUY TRÌNH ĐẶT TOUR
Quý Khách vui lòng gọi điện vào số điện thoại Hotline: 0919 80 77 33 và cung cấp cho Công Ty chúng tôi địa chỉ email của Quý Khách, chúng tôi sẽ gởi cho Quý Khách chương trình tour, lịch khởi hành. Sau đó Công Ty sẽ cử nhân viên đến tư vấn và giải đáp mọi thắc mắc của Quý Khách liên quan đến chương trình du lịch. Nếu Quý Khách hài lòng Công Ty sẽ ký kết hợp đồng với Quý Khách và thực hiện tour đúng theo yêu cầu của Quý Khách.


Bất kỳ lúc nào chúng tôi cũng có thể giao vé cho quý khách
 

Travel with a local guide

 ĐỒNG HÀNH VIỆT SÀI GÒN - TRAO TRỌN NIỀM TIN

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

CHỢ ĐẦM

Chợ Đầm nằm ngay trung tâm thành phố Nha Trang là một công trình kiến trúc đẹp, lớn và độc đáo. Đây là trung tâm thương mại ngày đêm sầm uất, chợ nằm trên một cái đầm cũ rộng 7 mẫu Tây, ăn thông ra với cửa sông Cái (sông Nha Trang)  dưới cầu Hà Ra. Vì vậy chợ mới có tên là chợ Đầm.
Năm 1961, Ty Kiến Thiết Khánh Hòa thiết lập đồ án đại cương về quy hoạch và xây dựng chợ Đầm mới do kiến trúc sư Lê Kim Anh thiết kế, trong đó có dự án lấp nửa đầm, xây trên đó một khu chợ tròn, kinh phí dự tính lúc đó là 22 triệu đồng. Đến 1964 kiến trúc sư Lê Quý Phong lại lập một đề án khác, trong đó thiết kế một ngôi chợ tròn mái xếp có nhánh hình vòng cung. Đồ án này là cơ sở căn bản cho ngôi chợ ngày nay. Hai đồ án chưa kịp thực hiện thì đêm 16/08/1968, một trận hỏa hoạn lớn khủng khiếp xảy ra, thiêu hủy 126 ngôi nhà ở đường Nguyễn Thái Học nên việc xây dựng khu chung cư và khu chợ hết sức bức thiết với tổng kinh phí cho dự án lên đến 621.800.000 đồng.
22/12/1969 được coi là ngày đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng khu Đầm trên cơ sở đồ án của kiến trúc sư Lê Quý Phong và các kiến trúc sư Hồ Thăng, Võ Đình Diệp, Nguyễn Xuân Phương đã thiết kế khu chợ Đầm ngày nay với một số đặc điểm : chợ tròn, mái xếp tròn hình chữ V, tầng lầu hình vành khăn có 3 cầu thang rộng, nền cao bảo đảm trong mùa mưa lũ.
Đoàn thiết kế 2 chung cư “A” và “B” do kiến trúc sư Trần Tiêu Chuẩn thực hiện, gồm những hạng mục sau :  mỗi cao ốc bao gồm : 1 tầng trệt và 3 tầng lầu. Tầng trệt cao 1,6m dành cho buôn bán và cửa hàng, tầng lầu cao 2,8m làm các căn hộ chung cư, 2 cao ốc xoay mặt cong về phía đường, 2 phía sau cao ốc đối diện nhau, ở giữa có một khoảng trống rộng 6m để đón gió. Công trình được khởi công xây dựng vào 21/11/1969 và hoàn tất ngày 14/10/1972. Toàn bộ khu chợ Đầm hoàn tất và đưa vào sử dụng 1974. Năm 1975 do chiến tranh một số lính chế độ cũ chạy từ Tây Nguyên về làm hư hại rất lớn. Sau giải phóng Viện Thiết Kế của Sở Xây dựng sửa chữa toàn bộ khu chợ và 1978 chính thức khai trương cửa hàng bách hóa cho đến nay.

SUỐI HOA LAN - HÒN HÈO

TRUYỀN THUYẾT SUỐI HOA LAN
Nói đến suối Hoa Lan là người ta nói đến chiến khu Hòn Hèo - căn cứ địa cách mạng ở chiến trường Nam Trung bộ trong hai cuộc chống Pháp và chống Mỹ mà ngày 16-7-1930 đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa một cách oai hùng và âm hưởng của nó vẫn còn vọng mãi đến mai sau…
Suối Hoa Lan nằm trong dãy núi Hòn Hèo, cách Nha Trang khoảng 18km về phía Bắc. Suối dài khoảng 6km, được hình thành từ nhiều suối nhỏ của những ngọn núi trong dãy Hòn Hèo. Dọc suối có đủ loại cây rừng mọc quấn quýt bên nhau thành tầng thành lớp. Đặc biệt, suối có rất nhiều hoa phong lan. Sau khi chảy qua những ghềnh thác cheo leo, suối Hoa Lan đổ nước trực tiếp vào đầm Nha Phu. Nối đầm Nha Phu với dãy Hòn Hèo là một khoảng đất bằng, diện tích khoảng 20 ha, nghĩa là chỉ trong một khoảng không gian không rộng lắm nhưng KDL suối Hoa Lan đã trải mình qua cả 3 hình thế: núi cao, đồng bằng và biển cả.
Chuyện kể rằng cách đây rất lâu, lâu lắm rồi bên đầm Nha Phu có một đôi trai gái yêu nhau say đắm, nhưng không thể nào tiến tới hôn nhân được chỉ vì lý do duy nhất là chàng trai quá nghèo. Cha mẹ cô gái ra điều kiện bất cứ ai muốn cưới con mình về làm vợ thì trước hết phải có năm chục ký yến sào và một trăm ký trầm hương để làm vật sính lễ. Không còn sự lựa chọn nào khác, cô - cậu đều hạ quyết tâm bí mật dắt nhau lên núi Hòn Hèo tìm trầm hương rồi sau đó tiến ra biển để hái yến sào. Như bị lạc vào nơi ốc đảo “không một dấu chân người”, họ cứ đi đi mãi mà vẫn không thấy trầm hương đâu - cho đến khi màn đêm buông xuống lúc nào không hay. Vừa mệt, vừa đói lại vừa khát nước, cả hai thiếp đi trong giấc ngủ. Khi tỉnh dậy thì không còn thấy người yêu đâu cả, cô gái đau đớn lần theo dấu vết từng giọt máu, nhưng bóng dáng người bạn trai thân yêu của mình vẫn “biệt vô âm tín”. Và tiếng khóc của người con gái cũng lịm dần đi trong sự tuyệt vọng, chỉ có nước mắt là vẫn chảy, chảy mãi theo các khe đá như dòng nước trong lành - hễ nước mắt thấm vào đâu là chỗ có vết máu của chàng trai lại hiện lên những chùm phong lan rực rỡ sắc màu, đung đưa trong gió…
Không biết cái tên “suối Hoa Lan” ra đời có giống như câu chuyện tình đầy nước mắt vậy không? Nhưng dù sao cũng “khen ai đã khéo đặt tên” - vừa thực, vừa mộng, vừa có ấn tượng về một vùng đất huyền thoại. Nó góp thêm vào bộ sưu tập “suối” của tỉnh Khánh Hòa càng thêm phong phú. Đó là suối Đổ, suối Ngỗ, suối Ồ Ồ, suối Ba Hồ, suối Đá Xẻ, suối Cát và suối… Hoa Lan. Có thể nói, ở duyên hải miền Trung chưa có một hòn đảo hay bán đảo nào có dòng nước ngọt tuyệt vời hơn suối Hoa Lan. Có lẽ bán đảo Hòn Hèo (suối Hoa Lan) giống như một con khủng long rúc đầu vào núi và duỗi cái đuôi ra biển. Nhờ vậy mà hệ thống mạch ngầm từ dãy Trường Sơn dồn về tắm mát quanh năm, tạo độ ẩm cho các loài thực vật phát triển. Nơi đây là thế giới của lan rừng. Ngày trước lan rừng nhiều lắm - là nơi hội tụ của nhiều giống phong lan như: từ vũ nữ, phượng hoàng, tai trâu, đuôi sóc, đuôi chồn, đuôi gà, tiên nữ, quế hương…. Nó mọc ra từ thân cây cổ thụ hoặc bám vào vách đá, đến đây lúc nào cũng gặp hoa nở, cùng với tiếng chim rừng vang hót líu lo. Người ta còn tận dụng nguồn nước ngọt trời cho này để xây bể nuôi hàng nghìn con cá sấu. Những chú voi con từ bản Đôn đưa về đây còn tinh nghịch thập thò cái vòi bé bỏng ra câu nhử cá sấu làm trò vui cho du khách.

NON NƯỚC KHÁNH KHÒA


Khánh Hoà (KH) nằm ở phần cong vươn xa nhất ra biển Đông.Mũi Đại Lãnh cùng với Tp Nha Trang và mũi Kê Gà ( BT) là 3 nơi ngắm bình minh sớm nhất VN. Tỉnh có diện tích 6.626 km2, tỉnh lỵ là Tp biển Nha Trang và các huyện thị: Tx.Cam Ranh,.Vạn Ninh,Ninh Hoà, Khánh Vĩnh, Diên Khánh,Khánh Sơn,Cam Lâm và huyện đảo Trường Sa (1 số đảo của nó bị Trung Quốc, Đài Loan, Philippin, Malaisia chiếm đóng).Phía bắc giáp Phú Yên,tây giáp Đăk Lăk,Lâm Đồng;nam giáp Ninh Thuận và phía đông giáp biển. KH có 6 đầm và vịnh lớn, đó là Đại Lãnh, vịnh Vân Phong, Hòn Khói, vịnh Nha Phu, vịnh Nha Trang (Cù Huân) và vịnh Cam Ranh- được xem là cảng biển có điều kiện tự nhiên tốt nhất Đông Nam Á..
*Lịch sử:
Ở Hòn Tre, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều công cụ bằng đá của một nền nông nghiệp dùng cuốc. Với việc phát hiện ra bộ đàn đá Khánh Sơn vào năm 1979 trong địa bàn cư trú của tộc người Raglai, cho thấy chủ nhân của bộ đàn đá này đã sinh sống ở đây khoảng giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên.

Sang thời đại đồ sắt, các di chỉ đã phát hiện của nền văn hóa Xóm Cồn (Ba Ngòi, Cam Ranh) cho phép khẳng định nền văn hóa thời đại đồ sắt ở 
Khánh Hoà  có niên đại khoảng gần 4000 năm sớm hơn văn hóa Sa Huỳnh.Nằm trong địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh, Khánh Hoà có nhiều di chỉ khảo cổ học về nền văn hóa này như: Diên Sơn (huyện Diên Khánh), Bình Tân, Hòn Tre (Nha Trang), Ninh Thân (huyện Ninh Hòa).

KH trong thời Chăm Pa là tiểu vương quốc Kauthara nơi sinh sống của bộ tộc Cau - một trong hai thị tộc chính của vương quốc Chăm pa xưa. Khu tháp thờ Bà mẹ xứ sở Ponagar (
Nha Trang) đến nay vẫn còn, là nơi thể hiện một phong cách kiến trúc tháp Chàm hoàn hảo và hùng tráng nhất. Ngoài Tháp Bà Nha Trang), ở KH còn có nhiều di tích văn hóa Chămpa như: Bia Võ Cạnh có niên đại khoảng cuối thế kỷ thứ 2 đầu thế kỷ thứ 3, là tấm bia cổ vào bậc nhất Việt Nam và khu Đông Nam Á, Thành Hời, miếu Ông Thạch, Am Chúa,...

Vào đầu Công Nguyên, một bộ phận trong bộ tộc Cau, đã thành lập nên một tiểu quốc và được đặt tên là Tiểu quốc Nam Chăm, hay còn gọi là Panrãn hay Panduranga (tiếng Chăm Cổ). Tiểu quốc này gồm hai xứ là Panduranga (ngày nay là Phan Rang, Phan Thiết) và Kauthara (tức 
Khánh Hoà ngày nay). Đối địch với Tiểu quốc Nam Chăm là Tiểu quốc Bắc Chăm ở khu vực thuộc Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay.

Sau đó, trải qua nhiều thế kỷ nội chiến liên miên, vương quốc Chăm Pa được thành lập trên cơ sở sự thống nhất của hai xứ Nam Chăm và Bắc Chăm. Đến thế kỷ thứ 8, dưới sự ra đời của vương triều Panduranga (Hoàn Vương Quốc), vùng Kauthara phát triển đến mức cực thịnh chỉ sau kinh đô với những khu đền tháp to lớn và linh thiêng mà tiêu biểu là ngôi đền thánh Ponagar thờ vị nữ thần mẹ xứ sở Yang Pô Y Na Gar.
Năm1653, vua Chăm là Bà Tấm sai quân quấy nhiễu, giết dân Việt ở Phú Yên, xứ Đàng Trong của Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Chúa sai cai cơ Hùng Lộc đem quân vào chống giữ, nhân đêm tối đốt thành và tiến đánh đến tận sông Phiên Lang (Phan Rang). Thất bại nặng nề, vua Chăm sai con mang thư hàng và xin dâng đất cho Chúa từ vùng Phan Rang trở ra đến Phú Yên. Chúa chấp thuận và đặt dinh Thái Khang chia làm 2 phủ Thái Khang và Diên Ninh gồm 5 huyện là Phước Diên, Hoa Châu, Vĩnh Xương, Tân Định và Quảng Phước đều giao cho Hùng Lộc trấn giữ. Từ đó, vùng đất này đã trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam cho đến ngày nay.
Vào năm 1690, phủ Thái Khang được đổi thành phủ Bình Khang và vào năm 1742, phủ Diên Ninh được đổi thành phủ Diên Khánh.Vào năm 1771, Tây Sơn dấy nghĩa binh đánh Chúa Nguyễn. Chỉ ba năm sau, Chúa Nguyễn phải bỏ Phú Xuân chạy vào Gia Định. Quân Tây Sơn đã kiểm soát vùng đất kéo dài từ Quy Nhơn đến Bình Thuận.
Sau đó, tướng nhà Nguyễn là Tống Phúc Hạp kéo quân ra đánh lấy lại được Dinh Bình Thuận và Phủ Diên Khánh nhưng rồi lại bị Nguyễn Huệ đem quân đánh tan lấy lại được hai vùng trên..

Đến tháng 7 năm 1793, Định Vương Nguyễn Phúc Ánh thân chinh thống lĩnh đại binh thủy, bộ từ Gia Định kéo ra
Nha Trang. Từ Nha Trang tấn công lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn không cầm cự nổi phải bỏ Diên Khánh và Bình Khang.

Vào năm 1802, Vua Gia Long lên ngôi, Dinh Bình Khang lại được đổi tên thành Trấn Bình Hòa, phủ Bình Khang được đổi thành phủ Bình Hòa. Sau đó, phải đến năm 1831 thì trấn Bình Hòa mới được đổi tên thành 
Khánh Hoà như ngày nay.

Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn kí kết hiệp ước Patenotre với thực dân Pháp. Ngày 13 tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân và sĩ phu cả nước chống thực dân Pháp, giúp vua cứu nước.

Hưởng ứng lời kêu gọi đó, vào ngày 14 tháng 12 năm 1885 nghĩa quân KH do Trịnh Phong lãnh đạo cùng với sự hỗ trợ của văn thân Phú Yên do Bùi Đáng chỉ huy đã tiến công và chiếm tỉnh KH. Bộ phận quan lại ở đây nhanh chóng giao thành cho nghĩa quân.Từ cuối tháng 3 năm 1886, nghĩa quân đã ráo riết hoàn tất các công tác chuẩn bị phòng thủ các đường thủy bộ, chờ đợi các cuộc tấn công trên quy mô lớn của người Pháp.
Đầu năm 1886, quân Pháp đổ bộ lên Nha Trang, nghĩa binh do Trịnh Phong lãnh đạo chặn đánh địch quyết liệt.Sau đó các lãnh tụ như Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh đều bị giết chết. Phong trào Cần Vương ở KH chấm dứt.Trong thời Pháp và triều Nguyễn, tỉnh lỵ được đóng tại thành Diên Khánh, nhưng được chuyển đến thị xã Nha Trang vào năm 1945.

Năm 1941, Nhật đem quân đến đóng tại Nha Trang.19-8-1945, Việt Nam độc lập đồng minh hội (Việt Minh) cướp chính quyền từ tay Nhật.Nhưng chỉ được hai tháng thì Pháp đổ bộ lên Nha Trang và đánh lấy lại KH.

Năm 1955, dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, KH cũng được tổ chức lại trên mọi phương diện. Các phủ huyện đổi thành quận. Các làng đổi thành xã.Tháng 5 năm 1959, hai tổng Krang Ying và Krang Hinh thuộc tỉnh Đăk Lăk được sát nhập vào tỉnh 
Khánh Hoà và lập thành quận Khánh Dương.

Tháng 4 năm 1960, 12 thôn Thượng thuộc quận Cam Lâm được trích ra khỏi 
Khánh Hoà để nhập vào quận Du Long tỉnh Ninh Thuận.Tháng 10 năm 1965, một phần đất quận Cam Lâm ở phía Nam bị cắt để thiết lập Thị Xã Cam Ranh.

Ngày 1,2,3 tháng 4 năm 1975 Ninh Hòa, Nha Trang và Cam Ranh lần lượt được giải phóng. Năm 1975 ,hợp nhất hai tỉnh Phú Yên và 
Khánh Hoà thành tỉnh Phú Khánh. Năm 1977, Tx. Nha Trang được nâng cấp thành Tp.Nha Trang.Quốc hội quyết định quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phú Khánh vào năm 1982. Năm 1989, chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và KH.

Tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh nhờ có bờ biển dài, khí hậu ôn hòa và nhiều di tích lịch sử của vương quốc Champa: Tháp Bà Ponagar,. Thành Hời ,miếu Ông Thạch ,Am Chúa ,Bia Võ Cạnh ,Vịnh
Nha Trang (một trong 29 vịnh biển đẹp nhất thế giới); Hòn Nội (Đảo Yến) ,Hòn Miễu (Thuỷ cung Trí Nguyên) ,Hòn Tre (Vinperl land) ,Hòn Tằm, Hòn Mun (Khu bảo tồn biển đầu tiên của Việt Nam) ,Hòn Lao (Đảo Khỉ), Hòn Thị (Suối Hoa Lan) , biển Nha Trang ,biệt thự Bảo Đại ,chùaLong Sơn ,tượng Kim Thân Phật Tổ. Suối khoáng Tháp Bà,Viện Hải dương học Nha Trang, Thành cổ Diên Khánh,Vịnh Vân Phong ,Vịnh Cam Ranh ,Suối nước nóng Dục Mỹ (Ninh Hòa) ,Đầm Nha Phu ,Thác Yangbay, Dốc Lết,Khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin, Mộ Yersin (Suối Dầu) .

CÂY DẦU ĐÔI


Cây Dầu Đôi tọa lc tại ngã 3 Thành, đường vào thành phNha Trang, đối diện thành cổ Diên Khánh ,bên cạnh Miếu thờ Trịnh Phong
Bí mật cây dầu đôi hơn 200 tuổi ở Nha Trang Khánh Hòa
Cách Nha Trang về hướng nam 11 cây số, trên đường 23/10 ngay ngã ba nối liền với Cải lộ tuyến đi hướng bắc có một cây dầu đôi cổ thụ. Cây bị cưa nhiều nhánh, trong tình trạng ra ít lá, cao 30m và cành xòe tán 15m. Đây là cây dầu đôi gắn liền với lịch sử tỉnh Khánh Hòa và cũng có nhiều truyền thuyết về nó.



Theo nhiều người thì cây dầu đôi (cây có hai nhánh từ gốc mọc lên) nằm trên con đường Thiên Lý kia là cây dầu lớn nhất trong cánh rừng đại ngàn ngày xưa ở khu vực Diên Khánh, Khánh Hòa này. Vào thế kỷ thứ 19, khi đó dân cư nơi này rất thưa thớt, con đường từ Nha Trang lên thành chỉ là con đường đất nhỏ, chủ yếu phục vụ cho xe ngựa và người đi bộ. Vì thế cánh rừng trên vẫn còn rất nhiều cây cối. Cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, việc mở con đường từ Nha Trang đi thành tiến hành và dân cư bắt đầu phát triển khi cánh rừng kia lần lượt biến thành khu dân cư và đồng ruộng. Cây dầu đôi khi ấy  nằm ở bên trong vệ đường, cành lá phát tán xum xuê tươi tốt được giữ lại như biểu trưng của một vùng đất.
Xác định niên đại của cây dầu đôi bằng khoa học thì chưa ai làm. Nhưng theo dẫn chứng của lịch sử thì vào năm 1793, thành Diên Khánh bắt đầu được xây dựng thì cây dầu đã có mặt. Chuyện tiếp theo là vào mùa xuân năm Quý Tỵ (1653)  chúa Nguyễn Phúc Tần ra lệnh cho cai cơ Hùng Ngọc Hầu tiến hành  mở mang bờ cõi từ đèo Cả vào đến bờ Bắc sông Phan Rang. Trong quá trình mơ cõi ấy,  khi đến Khánh Hòa, giữa cánh rừng, cây dầu đôi cao lớn khác thường nổi bật đã được giữ lại và ở lại cho đến bây giờ.
Cũng từ đó, cây dầu đôi được gắn liền với huyền thoại. Người ta cho rằng nguyên đây là cây dầu một nhánh, nhưng có một đêm mưa sấm chớp đã đánh trúng cây dầu khiến chúng tẻ thành hai nhánh như bây giờ. Tuy nhiên, nhiều lần đến cây dầu đôi quan sát chúng tôi nhận thấy cây dầu lớn lên tự nhiên, đây là cây dầu có hai nhánh chẻ ra tự nhiên chứ không hề có tác động từ bên ngoài.
Với tầm mắt nhìn, người ta có thể nhìn thấy cây dầu đôi này từ rất xa, khi nhìn thấy cây dầu đôi ta cảm giác như khi đi xa ta được trở về nhà. Nhờ bóng mát của cây dầu đôi, bao quanh nơi này trở thành một khu buôn bán hàng ăn sầm uất. Cây dầu đôi còn là một điểm tham quan của du khách trước khi đến thành cổ hay thăm các ngôi chùa cổ trong vùng. Đối với người dân quanh vùng, cây dầu đôi rất linh thiêng, cho nên họ đặt am thờ dưới gốc, khấn bái cầu nguyện. Đặc biệt, trên thân cây, ở độ tầm cao  hơn một mét có nốt bứu cây. Trên cây dầu có nhiều cây tầm gửi sống bám.
Câu chuyện Trịnh Phong 
Câu chuyện cây dầu đôi còn gắn liền với vị chiến sĩ yêu nước chống Pháp. Đó là Trịnh Phong. Bên cạnh cây dầu đôi có Miếu Trịnh Phong.
Miếu Trịnh Phong không to, bị nhiều hộ dân chen lấn nên rất chật chội, đã liên tiếp nhiều lần trùng tu. Miếu được xây dựng vào thập niên 90 của thế kỷ 14. Cửa miếu thay vì xoay ra con lộ lại xoay về hướng Bắc. Lúc đầu miếu thờ thần, cho đến sau khi xử chém Bình Tây đại tướng Trịnh Phong, Pháp treo đầu ông lên cây dầu đôi để thị uy, người dân đã đổi thành Miếu Trịnh Phong và thờ cúng ông. Miếu thờ Trịnh Phong cùng cây dầu đôi đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia vào năm 1991. Hiện miếu  còn lưu hai đạo sắc của các vua Thành Thái và Khải Định phong tặng.  Mỗi năm, vào ngày 16/3 (Âm lịch), tại Miếu đã làm lễ cúng trọng thể tưởng nhớ đến vị anh hùng.
Trịnh Phong quê ở  Phú Vinh, xã Vĩnh Thạnh, Nha Trang. Khi vua  Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương (tháng 8-1885) thì ông đang là một vị quan của triều đình đóng ở thành Diên Khánh. Ông đã chiêu binh chống PHáp dưới ngọn cờ “Bình Tây đại tướng” và đã quy tụ được nhiều nhân tài.
Đầu tháng 8-1886,  Pháp do đại úy Lhermitte chỉ huy với các loại vũ khí hạng nặng như sơn pháo 80, đội quân đánh thuê hơn 300 tên, bằng đường bộ và đường thủy tiến ra đánh Khánh Hòa nhằm tiêu diệt lực lượng yêu nước. Sau khi thành Diên Khánh bị thất thủ, Trịnh Phong đã  rút binh lên núi Hèo tiếp tục kháng chiến. Nhưng lực lượng ngày càng yếu, cuối tháng 8-1886 Trịnh Phong bị Pháp bắt, xử trảm ông tại Hòn Khói (11-9-1886). Phần mộ của Trịnh Phong được đặt ngay trong khuôn viên của dòng họ tại thôn Phú Vinh, xã Vĩnh Thạnh, Nha Trang.
 Bao cuộc bể dâu
Trải qua bao cuộc bể dâu như người xưa nói “Tang điền biến vi thương hải”  là không có gì vĩnh cữu với thời gian. Cây dầu đôi còn sót lại giữa cánh rừng đại ngàn kia mặc bao nhiêu biến cố.
Nhớ vào năm 2000, khi con đường 23/10 từ Nha Trang đi thành mở rộng cho sáu làn xe, Cây dầu đôi bị nằm trong khu vực phải “di dời” để mở đường. Số phận của cây dầu lịch sử được đem ra bàn cãi, rốt cuộc là quyết định giữ cây lại, còn con đường có cong veo một tí không sao. Vì thế, khi đi ngang cây dầu đôi như hiện nay, ta thấy cây dâu nằm ở  bên vệ đường, có kè chắn lại, bao quanh là con đường nhựa với khối nhựa nóng hàng ngày hút ánh nắng mặt trời làm cho rễ cây oằn mình gánh chịu.
Sau cuộc mở đường, Khánh Hòa tổ chức kỷ niệm 350 năm (2003) thì cây dầu đôi mỗi ngày mỗi xuất hiện những cành khô, tỉnh giao cho công ty Môi trường Đô thị tỉnh ra phương pháp cứu chữa. Vào thời thời điểm này, kinh phí 30 triệu đồng để “trị bệnh” cho cây dầu đôi cổ thụ là khoảng tiền lớn. Cách chữa trị là khoan những hố quanh cây dầu, bơm các chất kích thích phát triển rễ để tránh rễ cây bị chết do ảnh hưởng sức nóng từ lớp bê tông nhựa và phục hồi lại số rễ đã bị chặt đi trong quá trình mở đường và đào đất để đặt cáp ngầm, dây điện. Riêng phần thân cây, cũng dùng thuốc để bảo vệ cây bị sâu bọ đục phá, cưa lại các nhánh cây cưa sai phương pháp, dùng hóa chất bôi lên những “vết thương” của cây để tránh bị thối rữa do đọng nước mưa. Bơm các hóa chất kích thích lên các tán cây để phát triển hệ thống lá của cây dầu đôi.




Điều buồn cười là cũng vào thời điểm trên. Do lo sợ cây dầu đôi bị chết, công ty Môi trường Đô thị đã tìm một cây dầu đôi con trồng dự phòng cách cây dầu đôi lịch sử khoảng 15m. Tuy nhiên, do nhiều ý kiến phản đối, sau đó cây dầu đôi… ăn theo này đã bị nhổ bỏ.
Giờ đây, qua bao thăng trầm của cuộc sống, dẫu không còn xum xuê cành lá như thời trai tráng, cây dầu đôi già hơn 200 tuổi vẫn vươn xanh, nổi bật giữa trời trên con đường cửa ngõ từ phía Nam vào Nha Trang.

ST: Lê Văn Hải

THÀNH CỔ DIÊN KHÁNH

Nằm cách Nha Trang 10 km. Năm 1663 chúa Nguyễn Phúc Tần đem quân đi đánh Chiêm Thành chiếm đất Kathana lập nên dinh Thái Khang, nhận thấy vùng này liền núi, cạnh sông nên chúa Nguyễn cho thiết lập đồn lũy để tăng cường phòng thủ. 1690 dinh Thái Khang được đổi thành dinh Bình Khang. 1742 đổi thành phủ Diên Ninh. 1775 quân Tây Sơn đánh bại chúa Nguyễn chiếm thành Diên Khánh. 1793 Nguyễn Huệ mất nhà Tây Sơn yếu dần. Nguyễn Anh cùng Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương đem quân tiến đánh Diên Khánh, thấy nơi đây là địa Bàn chiến lược quan trọng lâu dài. Nguyễn Anh quyết xây dựng Diên Khánh thành căn cứ vững chắc, một vành đai phòng ngự từ xa.

Thành Diên Khánh là quần thể kiến trúc quân sự theo kiểu Vauban, 1 hình mẫu thành quân sự phổ biểnvào thế 17, 18 ở Tây Âu. Thành chiếm diện tích khoảng 36.000 m2. Tường thành hình lục giác nhưng không đều nhau dài 2.693 đắp bằng đất. Trên mỗi cạnh tường thành chia thành nhiều cạnh nhỏ, uốn lượn, nên các góc thành không nhô ra mà vẫn đảm bảo quan sát được 2 bên. Tường thành cao khoảng 3,5 m. mặt ngoài tường thành gần như dựng đứng, mặt trong có độ thoải và được đắp thành 2 bậc tạc đường vận chuyển thuận lợi ven thành. Bên thành có hào nước sâu từ 3 – 5 m bao quanh. Khi xây dựng thành xong, thành Diên Khánh có 6 cửa ở 6 cạnh tường thành, nay chỉ còn lại 4 cửa: Đông – Tây – Tiền – Hậu. Năm 1823 cửa Hữu và Tả đã bị lấp tới nay không còn dấu vết gì. Nay chỉ còn 2 cổng Đông – Tây gần như nguyên vẹn. Theo tư liệu cũ trong thành có nhiều kiến trúc độc đáo như hoàng cung, cột cờ, dinh tuần vũ, dinh án sát, nhà kho. Khi xây dựng xong thành Diên Khánh do hoàng tử Cảnh và Bà Đa Lộc chỉ huy trấn giữ. Vào năm 1885 – 1886 thành Diên Khánh từng là tổng hành dinh của nghĩa quân Cần Vương do Thịnh Phong chỉ huy và là cơ sở cách mạng 1945.
  Hiện nay thành Diên Khánh được nhà nước công nhận là di tích lịch sử.

Ý NGHĨA TÊN NHA TRANG

Tên Nha Trang là do tiếng thổ âm của người Chàm là Eatrang hay Jatrang đọc chệch ra mà thành. Ea hay Ja là con sông, Trang là lau sậy. Vì ngày xưa dọc theo bờ sông Nha Trang lau sậy mọc um tùm, hoa bông lau nở trắng 1 vùng. Tên Nha Trang được chính thức sử dụng từ khi người Việt đặt chủ quyền của mình trên mảnh đất này 1653.
             Còn 1 giả thuyết nữa về tên gọi là Nha Trang là: gần Hải Dương Học có ngôi nhà trắng nằm trên đồi cao sát biển. Tàu đánh cá theo đó có thể định hướng. Có lần tàu nước ngoài ngang qua đây, hỏi người phiên dịch đây là vùng nào, anh ta không biết thấy ngôi nhà màu trắng nên anh ta gọi đại là Nhà Trắng. Vì tiếng nước ngoài không có dấu nên đọc thành Nha Trang. Nhưng giả thuyết này không phù hợp cho lắm bởi vì tên Nha Trang chính thức được sử dụng vào 1653. Khi người Việt đặt chủ quyền trên vùng đất này. Ban đầu chỉ là xóm chài ven biển, khi ấy bác sĩ Yersin đến thì dân mới đông hơn. Chúng ta không thể không nhắc đến nhà bác học ALEXANDER JOHN EMILE YERSIN người đã gắn liền cuộc đời mình và cống hiến cho khoa học tại thành phố này. 

NHA TRANG

Nằm gọn trong lòng 1 thung lũng trước núi và ven biển. Thành phố có diện tích 238 km2, dân số khoảng 263.000 người ( 4 – 1989 ), với 19 hòn đảo lớn nhỏ nằm xa gần, trong đó có đảo Hòn Tre diện tích 36 km2 đứng sừng sững – một yếu tố góp phần tạo điều kiện khí hậu tuyệt vời cho Nha Trang.
             Nha Trang có điển tích lạ và hay, người xưa gọi là “ Tứ thủy triều quy, tứ thú tụ. Đó là 4 quả núi hội tụ lại đã giữ gìn sinh khí cảnh sắc tạo nên một vùng khí hậu tuyệt vời cho thành phố. Bốn quả núi đó là núi Cảnh Long còn có tên là: “ Thanh Long Hý Thủy ” ( Rồng xanh giỡn nước ), Hòn Sanh Trung ở HàRa ( “ Bạch Tượng quyện hồ ”, voi trắng cuốn hồ . Núi con dơi hay còn gọi là hòn Trại Thủy; hòn Một ( núi Con Rùa hay hòn Hòa Sơn ).
             Nước biển Nha Trang quanh năm trong xanh và đáy biển Nha Trang là nơi hội tụ những tập đoàn san hô nhiều màu sắc và tạo điều kiện cho việc sinh sôi nẩy nở hàng ngàn loại thực vật và động vật biển một nguồn hải sản vô tận cho Nha Trang.